Ngưng tất cả các hoạt động trên Forum
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Ngưng tất cả các hoạt động trên Forum


 
Trang ChínhTrang Chính  GalleryGallery  Tìm kiếmTìm kiếm  Latest imagesLatest images  Đăng kýĐăng ký  Đăng NhậpĐăng Nhập  

 

 CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN - Phân 2

Go down 
Tác giảThông điệp
boarding
Trung học
boarding


Tổng số bài gửi : 133
Join date : 13/05/2011
Age : 39
Đến từ : Sơn Động - Bắc Giang

CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN - Phân 2 Empty
Bài gửiTiêu đề: CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN - Phân 2   CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN - Phân 2 I_icon_minitimeMon Jun 27, 2011 10:26 am

CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN
Mục 3
ĐI QUA KHÔNG GÂY HẠI
ĐIỀU 45. Đi qua không gây hại
1. Chế độ đi qua không gây hại được nêu ở Mục 3 của phần II được áp dụng
trong các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế:
a) Nằm ngoài phạm vi áp dụng của chế độ quá cảnh theo Điều 38, khoản
1; hoặc
b) Nối liền lãnh hải của một quốc gia với một bộ phận của biển cả hay
với một vùng đặc quyền kinh tế của một quốc gia khác.
2. Việc thực hiện quyền đi qua không gây hại trong các eo biển không thể bị
đình chỉ.
PHẦN IV
CÁC QUỐC GIA QUẦN ĐẢO
ĐIỀU 46. Sử dụng các thuật ngữ
Trong công ước:
a) “Quốc gia quần đảo” (Etat Archipel) là một quốc gia hoàn toàn được
cấu thành bởi một hay nhiều quần đảo và có khi bởi một số hòn đảo khác
nữa.
b) “Quần đảo” (Archipel) là một tổng thể các đảo, kể cả các bộ phận của
các đảo, các vùng nước tiếp liền và các thành phần tự nhiên khác có liên
quan với nhau đến mức tạo thành về thực chất một thể thống nhất về địa lý,
kinh tế và chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử.
ĐIỀU 47. Đường cơ sở quần đảo
1. Một quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở thẳng của quần đảo
nối liền các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá lúc chìm lúc
nổi của quần đảo, với điều kiện là tuyến các đường cơ sở này bao lấy các đảo
chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích nước đó với đất, kể cả
vành đai san hô, phải ở giữa tỷ lệ số 1/1 và 9/1.

2. Chiều dài của các đường cơ sở này không vượt quá 100 hải lý; tuy nhiên
có thể tối đa 3% của tổng số các đường cơ sở bao quanh một quần đảo nào
đó có một chiều dài lớn hơn nhưng không quá 125 hải lý.
3. Tuyến các đường cơ sở này không được tách xa rõ rệt đường bao quanh
chung của quần đảo.
4. Các đường cơ sở không thể kéo dến hay xuất phát từ các bãi cạn lúc chìm
lúc nổi, trừ trường hợp tại đó có xây đặt các đèn biển hay các thiết bị tương
tự thường xuyên nhô trên mặt biển hoặc trừ trường hợp toàn bộ hay một phần
bãi cạn ở cách hòn đảo gần nhất một khoảng cách không vượt quá chiều rộng
lãnh hải.
5. Một quốc gia quần đảo không được áp dụng phương pháp kẻ các đường
cơ sở khiến cho các lãnh hải của một quốc gia khác bị tách rời với biển cả
hay với một vùng đặc quyền kinh tế.
6. Nếu một phần của vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo nằm
giữa hai mảnh lãnh thổ của một quốc gia kế cận, thì các thuyền và mọi lợi ích
chính đáng mà quốc gia kế cận này vẫn được hưởng theo truyền thống ở
trong các vùng nước nói trên, cũng như tất cả các quyền nảy sinh từ các điều
ước được ký kết giữa hai quốc gia, vẫn tồn tại và vẫn được tôn trọng.
7. Để tính toán tỷ lệ diện tích các vùng nước so với diện tích phần đất đã nêu
ở khoản 1, các vùng nước trên trong các bãi đá ngầm bao quanh các đảo và
vành đai san hô, cũng như mọi phần của một nền đại dương có sườn dốc đất
đứng, hoàn toàn hay gần như hoàn toàn do một chuỗi đảo đá vôi hay một
chuỗi các mỏm đá lúc chìm lúc nổi bao quanh, có thể được coi như là một bộ
phận của đất.
8. Các đường cơ sở được vạch ra theo đúng điều này phải được ghi trên hải
đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí. Bản kê tọa độ địa lý của các
điểm, có ghi rõ hệ thống trắc địa được sử dụng có thể thay thế cho các bản đồ
này.
9. Quốc gia quần đảo công bố theo đúng thủ tục các bản đồ hoặc bảng liệt kê
tọa độ địa lý và gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản để lưu chiểu.
ĐIỀU 48. Đo chiều rộng lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về
kinh tế và thềm lục địa
Chiều rộng của lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm
lục địa được tính từ cách đường cơ sở quần đảo theo đúng Điều 47.
ĐIỀU 49. Chế độ pháp lý của các vùng nước quần đảo và vùng trời ở
trên cũng như đáy biển tương ứng và lòng đất dưới đáy biển đó

1. Chủ quyền của quốc gia quần đảo mở rộng ra vùng nước ở phía trong
đường cơ sở quần đảo được vạch ra theo đúng Điều 47, được gọi là vùng
nước quần đảo (eaux archipélagiques), bất kể chiều sâu và khoảng cách xa bờ
của chúng thế nào.
2. Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên vùng nước quần đảo,
cũng như đến đáy vùng nước đó và lòng đất tương ứng và đến các tài nguyên
ở đó.
3. Chủ quyền này được thực hiện theo các điều kiện nêu trong phần này.
4. Chế độ đi qua vùng nước quần đảo do phần này quy định không đụng
chạm về bất kỳ một phương diện nào khác đến chế độ pháp lý của vùng nước
quần đảo, kể cả các đường hàng hải, đến việc quốc gia quần đảo thực hiện
chủ quyền của mình ở vùng nước đó, ở vùng trời phía trên, đáy nước vùng đó
và lòng đất tương ứng cũng như đối với các tài nguyên ở đó.
ĐIỀU 50. Hoạch định ranh giới nội thủy
Ở phía trong vùng nước quần đảo, quốc gia quần đảo có thể vạch những
đường khép kín để hoạch định ranh giới nội thủy của mình theo đúng các
Điều 9, 10, và 11.
ĐIỀU 51. Các điều ước hiện hành, các quyền đánh bắt hải sản truyền
thống và các dây cáp ngầm đã được lắp đặt
1. Không phương hại đến Điều 49, các quốc gia quần đảo tôn trọng các điều
ước hiện hành đã được ký kết với các quốc gia khác và thừa nhận các quyền
đánh bắt hải sản truyền thống và những hoạt động chính đáng của những
quốc gia kế cận trong một số khu vực thuộc vùng nước quần đảo và quốc gia
quần đảo. Các điều kiện và thể thức thực hiện các quyền và các hoạt động
này, kể cả tính chất, phạm vi của chúng và cả khu vực thực hiện các quyền và
các hoạt động nói trên, được xác định theo yêu cầu của bất cứ quốc gia nào
trong các quốc gia hữu quan qua các điều ước tay đôi được ký kết giữa các
quốc gia đó. Các quyền này không được chuyển nhượng hay chia sẻ cho
quốc gia thứ ba hay cho các công dân của các quốc gia ấy.
2. Các quốc gia quần đảo tôn trọng các dây cáp ngầm hiện có của những
quốc gia khác đặt và đi quan vùng nước của quốc gia quần đảo mà không
đụng đến bờ biển của mình. Các quốc gia quần đảo cho phép bảo dưỡng và
thay thế các đường dây cáp này sau khi họ đã được thông báo trước về vị trí
của chúng và về những công việc bảo dưỡng hay thay thế dự định tiến hành.
ĐIỀU 52. Quyền đi qua không gây hại

1. Với điều kiện tuân thủ Điều 53 và không phương hại đến Điều 50, tàu
thuyền của tất cả các quốc gia đều được hưởng quyền đi qua không gây hại
trong vùng nước quần đảo đã được quy định ở Mục 3 phần II.
2. Quốc gia quần đảo có thể tạm thời đình chỉ việc đi qua không gây hại của
tàu thuyền nước ngoài trong các khu vực nhất định thuộc vùng nước quần
đảo của mình, nếu biện pháp này là cần thiết để đảm bảo an ninh của nước
mình, nhưng không có sự phân biệt đối xử nào về mặt pháp lý hay về mặt
thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài. Việc đình chỉ này chỉ có hiệu lực sau
khi đã được công bố theo đúng thủ tục.
ĐIỀU 53. Quyền đi qua vùng nước quần đảo
1. Trong các vùng nước quần đảo và lãnh hải tiếp liền, quốc gia quần đảo có
thể ấn định các đường hàng hải và các đường hàng không ở vùng trời phía
trên các đường này để các tàu thuyền và phương tiện bay nước ngoài được đi
qua nhanh chóng và liên tục.
2. Tất cả các tàu thuyền và phương tiện bay được hưởng quyền đi qua quần
đảo theo các tuyến đường hàng hải và các đường hàng không đó.
3. “Đi qua vùng nước quần đảo” là việc các tàu thuyền và phương tiện bay
thực hiện không bị cản trở, theo phương thức hàng hải, hàng không bình
thường và theo đúng Công ước, các quyền hàng hải và hàng không của mình,
với mục đích duy nhất là quá cảnh liên tục và nhanh chóng giữa một điểm
của biển cả hay một vùng đặc quyền kinh tế.
4. Các đường hàng hải và các đường hàng không đi qua các vùng nước quần
đảo và lãnh hải tiếp liền hoặc vùng trời phía trên phải bao gồm tất cả các con
đường thường dùng cho hàng hải quốc tế trong vùng nước quần đảo và vùng
trời phía trên; các đường hàng hải cần theo đúng tất cả các luồng lạch thường
dùng cho hàng hải, tất nhiên, không cần phải thiết lập nhiều con đường thuận
tiện như nhau giữa một điểm vào và một điểm ra nào đó.
5. Các đường hàng hải và hàng không này được xác định qua hàng loạt các
đường trục liên tục nối liền các điểm vào với các điểm ra của chúng. Trong
quá trình đi qua các tàu thuyền và phương tiện bay không được đi chệch các
đường trục này quá 25 hải lý, tất nhiên, các tàu thuyền và phương tiện bay
này không được đi cách bờ một khoảng cách dưới 1/10 khoảng cách giữa
những điểm gần nhất của các đảo nằm dọc theo một con đường.
6. Quốc gia quần đảo khi ấn định các đường hàng hải theo đúng điều này
cũng có thể quy định các cách phân chia luồng giao thông nhằm bảo đảm an
toàn cho các tàu thuyền sử dụng các luồng lạch hẹp ở bên trong các con
đường này.
7. Khi hoàn cảnh đòi hỏi, quốc gia quần đảo, sau khi đã công bố theo đúng
thủ tục, có thể ấn định những đường hàng hải mới hay quy định cách bố trí

phân chia luồng giao thông mới để thay thế cho mọi con đường hay mọi cách
phân chia luồng giao thông do quốc gia đó đã thiết lập từ trước.
8. Các đường hàng hải và cách phân chia luồng giao thông đó phải phù hợp
với quy định quốc tế được chấp nhận chung.
9. Khi ấn định hay thay thế các đường hàng hải hoặc khi quy định hay khi
thay thế các cách bố trí phân luồng giao thông, quốc gia quần đảo gửi các đề
nghị của mình cho tổ chức quốc tế có thẩm quyền để được chấp nhận. Tổ
chức quốc tế này chỉ có thể được chấp thuận các đường hàng hải và các cách
bố trí phân chia luồng giao thông mà họ đã có thể thỏa thuận với quốc gia
quần đảo; khi đó, quốc gia quần đảo có thể ấn định, quy định hay thay thế
các đường hàng hải và các cách phân chia luồng giao thông đó.
10. Quốc gia quần đảo ghi rõ ràng lên các hải đồ được công bố theo đúng thủ
tục các đường trục của các đường hàng hải mà quốc gia đó ấn định và các
cách phân chia luồng giao thông mà quốc gia đó quy định.
11. Khi đi qua vùng quần đảo, các tàu thuyền tôn trọng các đường hàng hải
và các cách chia phân luồng giao thông được thiết lập theo đúng điều này.
12. Nếu quốc gia quần đảo không ấn định các đường hàng hải hay các đường
hàng không thì quyền đi qua vùng nước quần đảo có thể thực hiện bằng cách
sử dụng các con đường thường dùng cho hàng hải và hàng không quốc tế.
ĐIỀU 54. Các nghĩa vụ của tàu thuyền và phương tiện bay trong khi đi
qua, nghiên cứu và đo đạc thủy văn, các nghĩa vụ của quốc gia quần đảo,
các luật và quy định của quốc gia quần đảo liên quan đến việc đi qua
quần đảo
Các Điều 39, 40, 42, 44 được áp dụng Mutatis mutandis (với những thay đổi
cần thiết về chi tiết) cho việc đi qua vùng quần đảo.
PHẦN V
VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ
ĐIỀU 55. Chế độ pháp lý riêng của vùng đặc quyền về kinh tế
Vùng đặc quyền về kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền
với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong phần này, theo đó
các quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển và các quyền tự do của
các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh.

ĐIỀU 56. Các quyền, quyền tài phán và các nghĩa vụ của các quốc gia
ven biển trong vùng đặc quyền về kinh tế
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có:
a) Các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò khai thác, bảo tồn và quản
lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước
bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về
những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh
tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.
b) Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về
việc:
i. Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình;
ii. Nghiên cứu khoa học về biển;
iii. Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và các nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
2. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các quyền và làm các
nghĩa vụ của mình theo Công ước, quốc gia ven biển phải tính đến các quyền
và nghĩa vụ của các quốc gia khác và hành động phù hợp với Công ước.
3. Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nêu trong
điều này được thực hiện theo đúng phần VI.
ĐIỀU 57. Chiều rộng của vùng đặc quyền về kinh tế
Vùng đặc quyền về kinh tế không được mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ
đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
ĐIỀU 58. Các quyền và các nghĩa vụ của các quốc gia khác trong vùng
đặc quyền về kinh tế
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, tất cả các quốc gia, dù có biển hay
không có biển, trong những điều kiện trong những quy định thích hợp của
Công ước trù định, được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không,
quyền tự do đặt dây cáp ngầm nêu ở Điều 87, cũng như quyền tự do sử dụng
biển vào những mục đích khác hợp pháp về mặt quốc tế và gắn liền với việc
thực hiện các quyền tự do này và phù hợp với các quy định khác của Công
ước, nhất là những khuôn khổ việc khai thác các tàu thuyền, phương tiện bay
và dây cáp, ống dẫn ngầm.
2. Các Điều từ 88 đến 115, cũng như các quy tắc thích hợp khác của pháp
luật quốc tế, được áp dụng ở vùng đặc quyền kinh tế trong chừng mực mà
chúng không mâu thuẫn với phần này.

3. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các quyền và làm các
nghĩa vụ của mình theo Công ước, các quốc gia phải tính đến các quyền và
các nghĩa vụ của quốc gia ven biển và tôn trọng các luật và quy định mà quốc
gia ven biển đã ban hành theo đúng các quy định của Công ước và trong
chừng mực mà các luật và quy định đó không mâu thuẫn với phần này và với
các quy tắc khác của pháp luật quốc tế.
ĐIỀU 59. Cơ sở giải quyết các tranh chấp trong trường hợp Công ước
không quy định rõ các quyền và quyền tài phán trong vùng đặc quyền về
kinh tế
Trong những trường hợp Công ước không quy định rõ các quyền hay quyền
tài phán trong các vùng đặc quyền về kinh tế cho quốc gia ven biển hay cho
các quốc gia khác và ở đó có xung đột giữa lợi ích của quốc gia ven biển với
lợi ích của một hay nhiều quốc khác thì sự xung đột này phải được giải quyết
trên cơ sở công bằng và có chú ý đến tất cả mọi hoàn cảnh thích đáng, có tính
đến tầm quan trọng của các lợi ích có liên quan đó đối với các bên tranh chấp
và đối với toàn bộ cộng đồng quốc tế.
ĐIỀU 60. Các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình trong vùng đặc quyền
về kinh tế
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có đặc quyền tiến
hành xây dựng, cho phép và quy định việc xây dựng, khai thác và sử dụng:
a) Các đảo nhân tạo;
b) Các thiết bị và công trình dùng vào các mục đích được trù định ở Điều 56
hoặc các mục đích kinh tế khác;
c) Các thiết bị và công trình có thể gây trở ngại cho việc thực hiện các quyền
của quốc gia ven biển trong vùng.
2. Quốc gia ven biển có quyền tài phán đặc biệt đối với các đảo nhân tạo, các
thiết bị và các công trình đó, kể cả về mặt các luật và quy định hải quan, thuế
khóa, y tế, an ninh và nhập cư.
3. Việc xây dựng các đảo nhân tạo, thiết bị và công trình đó phải được thông
báo theo đúng thủ tục, và việc duy trì các phương tiện thường trực để báo
hiệu sự có mặt của các đảo, thiết bị và công trình nói trên cần được bảo đảm.
Các thiết bị hay công trình đã bỏ hoặc không dùng đến nữa cần được tháo dỡ
để đảm bảo an toàn hàng hải, có tính đến những quy phạm quốc tế đã được
chấp nhận chung do tổ chức quốc tế có thẩm quyền đặt ra về mặt đó. Khi
tháo dỡ phải tính đến việc đánh bắt hải sản, bảo vệ môi trường biển, các
quyền và các nghĩa vụ của quốc gia khác. Cần thông báo thích đáng về vị trí,
kích thước và độ sâu của những phần còn lại của một thiết bị hoặc công trình
chưa được tháo dỡ hoàn toàn.

4. Quốc gia ven biển, nếu cần, có thể lập ra xung quanh các đảo nhân tạo, các
thiết bị hoặc công trình đó những khu vực an toàn với kích thước hợp lý;
trong các khu vực đó, quốc gia ven biển có thể áp dụng các biện pháp thích
hợp để bảo đảm an toàn hàng hải, cũng như an toàn của các đảo nhân tạo, các
thiết bị và công trình đó.
5. Quốc gia ven biển ấn định chiều rộng của những khu vực an toàn có tính
đến các quy phạm quốc tế có thể áp dụng được. Các khu vực an toàn này
được xác định sao cho đáp ứng một cách hợp lý với tính chất và chức năng
của các đảo nhân tạo, các thiết bị và các công trinh, và không thể mở rộng ra
một khoảng cách quá 500m xung quanh các đảo nhân tạo, các thiết bị và các
công trình, tính từ mỗi điểm của mép ngoài cùng của các đảo nhân tạo, thiết
bị và các công trình dó, trừ ngoại lệ do các vi phạm của quốc tế đã được thừa
nhận chung cho phép hoặc tổ chức quốc tế có thẩm quyền kiến nghị. Phạm vi
của khu vực an toàn được thông báo theo đúng thủ tục.
6. Tất cả các tàu thuyền phải tôn trọng các khu vực an toàn đó và tuân theo
các tiêu chuẩn quốc tế được chấp nhận chung liên quan đến hàng hải trong
khu vực của các đảo nhân tạo, các thiết bị, các công trình và các khu vực an
toàn.
7. Không được xây dựng những đảo nhân tạo, thiết bị hoặc công trình, không
được thiết lập các khu vực an toàn xung quanh các đảo, thiết bị, công trình đó
khi việc đó có nguy cơ gây trở ngại cho việc sử dụng các đường hàng hải đã
được thừa nhận là thiết yếu cho hàng hải quốc tế.
8. Các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình không được hưởng quy chế
của các đảo. Chúng không có lãnh hải riêng và sự có mặt của chúng không
có tác động gì đối với việc hoạch định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền về
kinh tế hoặc thềm lục địa.
ĐIỀU 61. Bảo tồn các nguồn lợi sinh vật
1. Quốc gia ven biển ấn định khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận được đối
với các tài nguyên sinh vật ở trong vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
2. Quốc gia ven biển dựa vào các số liệu khoa học đáng tin cậy nhất mà mình
có, thi hành các biện pháp thích hợp về bảo tồn và quản lý nhằm làm cho
việc duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình
khỏi bị ảnh hưởng do khai thác quá mức. Quốc gia ven biển và các tổ chức
quốc tế có thẩm quyền, các tổ chức phân khu vực, khu vực hay thế giới, hợp
tác với nhau một cách thích hợp để thực hiện mục đích này.
3. Các biện pháp đó cũng nhằm để duy trì hay khôi phục các đàn (stocks) hải
sản được khai thác ở mức bảo đảm đạt năng suất ổn dịnh tối đa, có tính đến
các yếu tố sinh thái và kinh tế thích đáng, kể cả các nhu cầu kinh tế của tập
thể ven bờ sống về nghề đánh bắt hải sản và các nhu cầu riêng của các quốc
gia đang phát triển, và có tính dến các phương thức đánh bắt, đến quan hệ hỗ

tương giữa các đàn (stocks) và đến tất cả các quy phạm quốc tế tối thiểu
thường được kiến nghị ở cấp phân khu vực, khu vực hay thế giới.
4. Khi áp dụng các biện pháp đó, quốc gia ven biển chú ý đến tác động của
chúng đối với các loài quần hợp với các loài được khai thác hoặc phụ thuộc
vào các loài đó để duy trì hoặc khôi phục các đàn (stocks) của những loài
quần hợp hay phụ thuộc này ở một mức độ làm việc sinh sản của chúng khỏi
nguy cơ bị tổn hại nghiêm trọng.
5. Các thông tin khoa học có thể sử dụng, các số liệu thống kê liên quan đến
việc đánh bắt và đến sức đánh bắt và các số liệu khác liên quan đến việc bảo
tồn các đàn (stocks) cá được phổ biến và trao đổi đều đặn qua trung gian của
các tổ chức quốc tế có thẩm quyền, các tổ chức phân khu vực hoặc thế giới
và khi có điều kiện thì tiến hành với sự tham gia của tất cả các quốc gia hữu
quan, nhất là các quốc gia có công dân được phép đánh bắt trong vùng đặc
quyền về kinh tế.
ĐIỀU 62. Khai thác tài nguyên sinh vật
1. Quốc gia ven biển xác định mục tiêu là tạo điều kiện thuận lợi cho việc
khai thác tối ưu các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế mà
không phương hại đến Điều 61.
2. Quốc gia ven biển xác định khả năng của mình trong việc khai thác các tài
nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền về kinh tế. Nếu khả năng khai thác đó
thấp hơn tổng khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận thì quốc gia ven biển
cho phép các quốc gia khác, qua điều ước hoặc các thỏa thuận khác và theo
đúng các thể thức, điều kiên, các luật và quy định nói ở khoản 4, khai thác số
dư của khối lượng cho phép đánh bắt; khi làm như vậy, cần đặc biệt quan
tâm đến các Điều 69 và 70 nhất là quan tâm đến các quốc gia đang phát triển
nói trong các điều đó.
3. Khi đồng ý cho các quốc gia khác vào hoạt động trong vùng đặc quyền về
kinh tế của mình theo điều này, quốc gia ven biển tính đến tất cả các yếu tố
thích đáng, trong đó có: tấm quan trọng của các tài nguyên sinh vật thuộc khu
vực đối với nền kinh tế và đối với các lợi ích quốc gia khác của nước mình;
các Điều 69 và 70, các nhu cầu của các quốc gia đang phát triển trong khu
vực hay phân khu vực về vấn đề khai thác một phần của số dư, và sự cần
thiết phải giảm bớt đến mức tối thiểu những rối loạn kinh tế trong các quốc
gia nào có những công dân thường đánh bắt hải sản ở trong khu vực hoặc đã
đóng góp nhiều vào công tác tìm kiếm và thống kê các đàn (stocks) hải sản.
4. Công dân của các quốc gia khác khi tiến hành đánh bắt trong vùng đặc
quyền về kinh tế phải tuân thủ theo các biện pháp bảo tồn và các thể thức,
các điều kiện khác được đề ra trong các luật và quy định của quốc gia ven
biển. Các luật và quy định đó phải phù hợp với Công ước và đặc biệt có thể
đề cập các vấn đề sau đây:

a) Việc cấp giấy phép cho ngư dân hay tàu thuyền và phương tiện đánh
bắt, kể cả việc nộp thuế hay mọi khoản phải trả khác, trong trường hợp đối
với các quốc gia ven biển đang phát triển, có thể là một sự đóng góp thích
đáng vào ngân sách, vào việc trang bị và vào sự phát triển kỹ thuật của công
nghiệp đánh bắt hải sản;
b) Chỉ rõ các chủng loại cho phép đánh bắt và ấn định tỉ lệ phần trăm,
hoặc là đối với các đàn (stocks) hay các nhóm đàn hải sản riêng biệt hoặc đối
với số lượng đánh bắt của từng chiếc tàu trong một khoảng thời gian nhất
định, hoặc là đối với số lượng đánh bắt của các công dân của một quốc gia
trong một thời kỳ nhất định;
c) Quy định các mùa vụ và các khu vực đánh bắt, kiểu, cỡ và số lượng các
phương tiện đánh bắt, cũng như kiểu, cỡ và số lượng tàu thuyền đánh bắt có
thể được sử dụng;
d) Ấn định tuổi và cỡ cá và các sinh vật khác có thể được đánh bắt;
e) Các thông tin mà tàu thuyền đánh bắt phải báo cáo, đặc biệt là những số
liệu thống kê liên quan đến việc đánh bắt và sức đánh bắt và thông báo vị trí
cho các tàu thuyền;
f) Nghĩa vụ tiến hành, với sự cho phép và dưới sự kiểm soát của quốc gia
ven biển, các chương trình nghiên cứu này, kể cả việc lấy mẫu các thứ đánh
bắt được, nơi nhận các mẫu và việc thông báo các số liệu khoa học có liên
quan;
g) Việc quốc gia ven biển đặt các quan sát viên hay thực tập sinh trên các
tàu thuyền đó;
h) Bốc dỡ toàn bộ hay một phần các sản phẩm đánh bắt được của các tàu
thuyền đó ở các cảng của quốc gia ven biển;
i) Các thể thức và điều kiện liên quan đến các xí nghiệp liên doanh hoặc
các hình thức hợp tác khác;
j) Các điều kiện cần thiết về mặt đào tạo nhân viên, về chuyển giao kỹ
thuật trong lĩnh vực đánh bắt hải sản, kể cả việc đẩy mạnh khả năng nghiên
cứu nghề cá của quốc gia ven biển;
k) Các biện pháp thi hành.
5. Quốc gia ven biển phải thông báo theo đúng thủ tục các luật và quy định
mà mình ban hành về mặt bảo tồn quản lý.
ĐIỀU 63. Các đàn cá (stocks) ở trong vùng độc quyền về kinh tế của
nhiều quốc gia ven biển hoặc đồng thời ở trong vùng đặc quyền về kinh
tế và trong một khu vực tiếp liền với vùng đặc quyền về kinh tế
1. Khi cùng một đàn (stocks) cá hoặc những đàn (stocks) các loài quần hợp ở
trong vùng đặc quyền về kinh tế của nhiều quốc gia ven biển, các quốc gia

này cố gắng, trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức phân khu vực hay
khu vực thích hợp, thỏa thuận với nhau về các biện pháp cần thiết nhằm phối
hợp hoặc bảo đảm việc bảo tồn và phát triển các đàn cá đó mà không phương
hại đến các quy định khác của phần này.
2. Khi cùng một đàn cá hoặc những đàn các loài quần hợp đồng thời ở trong
vùng đặc quyền về kinh tế và ở trong một khu vực tiếp liền với vùng đó,
quốc gia ven biển và các quốc gia khác khai thác các đàn này ở trong khu
vực tiếp liền cố gắng trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức phân khu
vực hay khu vực thích hợp, thỏa thuận với nhau về các biện pháp cần thiết để
bảo tồn các đàn cá này trong khu vực tiếp liền.
ĐIỀU 64. Các loài cá di cư xa (Grands migranteurs)
1. Quốc gia ven biển và các quốc gia khác có công dân chuyên đánh bắt
trong khu vực những loài cá di cư xa ghi ở bảng danh mục của Phụ lục I, cần
trực tiếp hoặc qua trung gian của các tổ chức quốc tế thích hợp, hợp tác với
nhau nhằm bảo đảm việc bảo tồn các loài cá nói trên và đẩy mạnh việc khai
thác tối ưu các loài cá đó trong toàn bộ khu vực, ở trong cũng như ở ngoài
vùng đặc quyền về kinh tế. Trong những khu vực không có tổ chức quốc tế
thích hợp, thì quốc gia ven biển và các quốc gia khác có công dân khai thác
các loài cá đó trong khu vực, hợp tác với nhau để lập ra một tổ chức như thế
và tham gia vào khu vực của tổ chức này.
2. Khoản 1 được áp dụng thêm vào các quy định khác của phần này.
ĐIỀU 65. Loài có vú ở biển (Mammiferes marins)
Không một quy định nào của phần này hạn chế quyền của một quốc gia ven
biển cấm, hạn chế hay quy định việc khai thác các loài có vú ở biển chặt chẽ
hơn những quy định của phần này, cũng như hạn chế thẩm quyền của một tổ
chức quốc tế về việc này nếu có. Các quốc gia hợp tác với nhau nhằm bảo
đảm việc bảo vệ các loài có vú ở biển và đặc biệt là qua trung gian của các tổ
chức quốc tế thích hợp, tìm mọi cách để bảo vệ, quản lý và nghiên cứu loài
cá voi.
ĐIỀU 66. Các đàn cá vào sông sinh sản (Stocks de poissons anadromes)
1. Các quốc gia có các dòng sông mà ở đó các đàn cá (Poissons anadromes)
vào sinh sản là những nước đầu tiên phải quan tâm đến các đàn cá này và
phải chịu trách nhiệm trước hết về loại cá này.
2. Quốc gia nguồn gốc của các đàn cá vào sông sinh sản cần chăm lo đến
việc bảo tồn các đàn cá đó bằng việc thi hành những biện pháp thích hợp quy
định việc đánh bắt trong tất cả các vùng nước nằm bên trong ranh giới ngoài

của vùng đặc quyền về kinh tế, cũng như việc đánh bắt nói ở khoản 3, điểm
b. Quốc gia nguồn gốc có thể xác định tổng số được phép đánh bắt các loài
cá được sinh sản ra từ các dòng sông của họ, sau khi đã tham khảo các quốc
gia nói trong các khoản 3 và 4 đang khai thác các đàn cá đó.
3. a) Chỉ có thể đánh bắt các đàn cá vào sông sinh sản trong các vùng
nước nằm bên trong ranh giới ngoài của các vùng đặc quyền về kinh tế, trừ
các trường hợp mà việc áp dụng quy định này có thể dẫn đến những rối loạn
kinh tế cho một quốc gia không phải là quốc gia nguồn gốc. Đối với việc
đánh bắt bên ngoài ranh giới phía ngoài của các vùng đặc quyền về kinh tế,
các quốc gia hữu quan cần tham khảo ý kiến của nhau để thỏa thuậ về các thể
thức và điều kiện của việc đánh bắt này, nhưng phải tính đến các đòi hỏi của
việc bảo tồn và các nhu cầu của quốc gia nguồn gốc về đàn (stoscks) cá đó.
b) Quốc gia nguồn gốc góp phần giảm bớt đến mức tối thiểu những rối
loạn về kinh tế trong các quốc gia khác đang tiến hành khai thác các loài cá
này bằng cách tính đến việc đánh bắt bình thường của các quốc gia này và
đến các cách mà họ khai thác đàn cá đó, cũng như đến tất cả các khu vực mà
các đàn cá đó được khai thác.
c) Các quốc gia nói ở điểm b tham gia qua sự thỏa thuận với các quốc gia
nguồn gốc, vào những biện pháp bảo đảm khôi phục các đàn cá vào sông
sinh sản, đặc biệt là bằng cách đóng góp tài chính cho các biện pháp này; các
quốc gia đó được quốc gia nguồn gốc quan tâm đặc biệt trong việc khai thác
các loài cá được sinh sản ra từ các dòng sông của mình.
d) Việc áp dụng quy định liên quan đến các đàn cá vào sông sinh sản ở
ngoài vùng đặc quyền về kinh tế được bảo đảm qua sự thỏa thuận giữa quốc
gia nguồn gốc và các quốc gia hữu quan khác.
4. Khi các đàn cá vào sông sinh sản di cư đến các vùng nước hoặc đi qua các
vùng nước nằm bên trong ranh giới ngoài của vùng đặc quyền về kinh tế của
một quốc gia không phải là quốc gia nguồn gốc, quốc gia này hợp tác với
quốc gia nguồn gốc nhằm bảo tồn và quản lý các đàn cá đó.
5. Quốc gia nguồn gốc của các đàn cá vào sông sinh sản và các quốc gia khác
đánh bắt cá này ký kết các thỏa thuận nhằm áp dụng điều này, nếu có thể
được thì qua trung gian của các tổ chức khu vực.
ĐIỀU 67. Các loài cá ra biển sinh sản (espèces catadromes)
1. Một quốc gia ven biển mà trong vùng nước của mình loài cá ra biển sinh
sản sống phần lớn cuộc đời của chúng chịu trách nhiệm quản lý chúng và
chăm lo đến việc các loài cá này vào hoặc ra khỏi vùng nước đó.
2. Chỉ được khai thác các loài cá ra biển sinh sản trong những vùng nước bên
trong các ranh giới ngoài của các vùng đặc quyền về kinh tế. Trong các vùng

đặc quyền về kinh tế, việc khai thác được tiến hành theo điều này và các quy
định khác của Công ước liên quan đến việc đánh bắt trong các vùng này.
3. Trong những trường hợp mà các loài cá ra biển sinh sản, dù đã đến hay
chưa đến thời kỳ sinh sản, di cư qua vùng đặc quyền về kinh tế của một quốc
gia khác thì việc quản lý các loài cá này, kể cả việc khai thác, được quy định
qua thỏa thuận giữa quốc gia nói ở khoản 1 và quốc gia hữu quan kia. Thỏa
thuận này cần được bảo đảm việc quản lý hợp lý các loài cá được xem xét và
có tính đến trách nhiệm của quốc gia nói ở khoản 1 về việc bảo tồn các loài
này.
ĐIỀU 68. Các loài định cư (espèces sédentaires)
Phần này không áp dụng đối với các loài định cư, như đã được quy định ở
Điều 77, khoản 4.
ĐIỀU 69. Quyền của các quốc gia không có biển
1. Một quốc gia không có biển có quyền tham gia, theo một thể thức công
bằng, khai thác một phần thích hợp số dư các tài nguyên sinh vật của các
vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển trong cùng một phân
khu vực hoặc khu vực, có tính đến các đặc điểm kinh tế và địa lý thích đáng
của tất cả các quốc gia hữu quan và theo đúng điều này và các Điều 61 và 62.
2. Các điều kiện và các thể thức của việc tham gia này được các quốc gia
hữu quan ấn định thông qua thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực,
đặc biệt tính đến:
a) Sự cần thiết phải tránh mọi động tác có hại cho cộng đồng những
người đánh bắt hoặc cho công nghiệp đánh bắt của các quốc gia ven biển;
b) Mức độ quốc gia không có biển, theo đúng điều này, tham gia hoặc có
quyền tham gia, theo các thỏa thuận tay đôi, phân phu vực hay khu vực hiện
hành, vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về
kinh tế của các quốc gia ven biển khác;
c) Mức độ các quốc gia không có biển khác hoặc các quốc gia bất lợi về
địa lý tham gia vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền
về kinh tế cuả quốc gia ven biển và sự cần thiết tránh cho quốc gia ven biển
nào đó hoặc cho khu vực nào đó của quốc gia này một gánh nặng đặc biệt;
d) Những nhu cầu thực phẩm của dân cư ở các quốc gia được xem xét.
3. Khi khả năng đánh bắt của một quốc gia ven biển cho phép một mình quốc
gia đó có thể đánh bắt được hầu như toàn bộ khối lượng đánh bắt có thể chấp
nhận, được ấn định cho việc khai thác các tài nguyên sinh vật trong vùng đặc
quyền về kinh tế của mình thì quốc gia đó và các quốc gia hữu quan khác
hợp tác với nhau để ký kết các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hoặc khu

vực một cách công bằng cho phép các quốc gia đang phát triển không có biển
trong cùng khu vực hay phân khu vực đó tham gia một cách thích hợp vào
việc khai thác những tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế
của các quốc gia ven biển thuộc phân khu vực hay khu vực, có tính đến các
hoàn cảnh và điều kiện thỏa đáng đối với tất cả các bên. Để áp dụng điều quy
định này, cũng cần tính đến các yếu tố đã nêu ở khoản 2.
4. Các quốc gia phát triển không có biển chỉ có quyền tham gia khai thác các
tài nguyên sinh vật theo điều này, trong các vùng đặc quyền về kinh tế của
các quốc gia ven biển phát triển ở trong cùng phân khu vực hay khu vực, có
tính đến chừng mực mà quốc gia ven biển, khi cho các quốc gia khác vào
khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, đã xem
xét sự cần thiết phải giảm đến mức tối thiểu những tác hại đối với cộng đồng
những người đánh bắt cũng như những rối loạn kinh tế trong các quốc gia có
công dân vẫn thường tiến hành việc đánh bắt trong vùng.
5. Các quy định nói trên được áp dụng không phương hại đến các thỏa thuận
được ký kết nếu có trong các phân khu vực hay khu vực, mà ở đó các quốc
gia ven biển có thể dành cho các quốc gia không có biển ở cùng phân khu
vực hay khu vực đó những quyền ngang nhau, hoặc ưu tiên để khai thác các
tài nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
ĐIỀU 70. Quyền của các quốc gia bất lợi về địa lý
1. Các quốc gia bất lợi về địa lý có quyền tham gia, theo một thể thức công
bằng, vào việc khai thác một phần thích hợp số dư của những tài nguyên sinh
vật trong các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia ven biển ở cùng
phân khu vực hay khu vực, có tính đến các đặc điểm kinh tế và địa lý thích
đáng của tất cả các quốc gia hữu quan và theo đúng điều này và các Điều 61
và 62.
2. Trong phần này, thuật ngữ “quốc gia bất lợi về địa lý” có nghĩa là các quốc
gia ven biển, kể cả các quốc gia ở ven bờ một biển kín hoặc nửa kín, mà vị trí
địa lý của họ làm cho họ phải lệ thuộc vào việc khai thác những tài nguyên
sinh vật ở các vùng đặc quyền về kinh tế của các quốc gia khác trong phân
khu vực hoặc khu vực để có đủ cá dùng làm thực phẩm cung cấp cho dân cư
hay một bộ phận dân cư của họ, cũng như các quốc gia ven biển không thể có
một vùng đặc quyền kinh tế riêng.
3. Các điều kiện và thể thức của việc tham gia đó được các quốc gia hữu
quan ấn định thông qua con đường thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu
vực, đặc biệt có tính đến:
a) Sự cần thiết phải tránh mọi tác hại cho cộng đồng những người đánh
bắt hay cho công nghiệp đánh bắt của các quốc gia ven biển;
b) Mức độ quốc gia bất lợi về địa lý, theo đúng điều này, tham gia hoặc
có quyền tham gia theo các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực

hiện hành, vào việc khai thác các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về
kinh tế của các quốc gia ven biển khác;
c) Mức độ các quốc gia bất lợi về địa lý khác và các quốc gia không có
biển tham gia vào việc khai thác tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về
kinh tế của quốc gia ven biển và sự cần thiết tránh cho quốc gia ven biển nào
đó hoặc cho khu vực nào đó của quốc gia ấy phải chịu một gánh nặng đặc
biệt;
d) Những nhu cầu về thực phẩm của dân cư ở các quốc gia được xem xét.
4. Khi khả năng đánh bắt của một quốc gia ven biển cho phép một mình quốc
gia đó có thể đánh bắt được hầu như toàn bộ khối lượng đánh bắt có thể chấp
nhận, được ấn định cho việc khai thác các tài nguyên sinh vật trong vùng đặc
quyền về kinh tế của mình, quốc gia đó và các quốc gia hữu quan khác hợp
tác với nhau để ký kết các thỏa thuận tay đôi, phân khu vực hay khu vực một
cách công bằng, cho phép các quốc gia đang phát triển bất lợi về địa lý trong
cùng một phân khu vực hay khu vực đó tham gia một cách thích hợp vào việc
khai thác những tài nguyên sinh vật của các vùng đặc quyền về kinh tế của
các quốc gia ven biển trong phân khu vực hay khu vực, có tính đến các hoàn
cảnh và các điều kiện thỏa đáng đối với tất cả các bên. Để áp dụng điều quy
định này, cũng cần tính đến các yếu tố đã nêu ở khoản 3.
5. Các quốc gia phát triển bất lợi về địa lý chỉ có quyền tham gia vào việc
khai thác tài nguyên sinh vật, theo điều này, trong các vùng đặc quyền về
kinh tế của các quốc gia phát triển ở cùng một phân khu vực hay khu vực, có
tính đến chừng mực mà quốc gia ven biển, trong khi cho các quốc gia khác
vào khai thác tài nguyên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình, đã
xem xét sự cần thiết phải giảm đến mức tối thiểu những tác hại đối với cộng
đồng những người đánh bắt, cũng như những rối loạn kinh tế trong các quốc
gia có công dân vẫn thường tiến hành đánh bắt ở trong vùng.
6. Các quy định trên được áp dụng không phương hại đến các thỏa thuận
được ký kết nếu có trong các phân khu vực hoặc khu vực mà ở đó các quốc
gia ven biển có thể dành cho các quốc gia bất lợi về địa lý trong cùng khân
khu vực hay khu vực các quyền ngang nhau hoặc ưu tiên để khai thác các tài
nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền về kinh tế của mình.
ĐIỀU 71. Trường hợp các Điều 69 và 70 không thể áp dụng được
Các Điều 69 và 70 không áp dụng đối với các quốc gia ven biển có nền kinh
tế lệ thuộc rất nặng nề vào việc khai thác tài nguyên sinh vật ở vùng đặc
quyền về kinh tế của mình.
ĐIỀU 72. Những hạn chế về chuyển giao các quyền.

1. Các quyền khai thác các tài nguyên sinh vật nêu ở các Điều 69 và 70
không thể chuyển giao trực tiếp hay gián tiếp cho các quốc gia thứ ba hay
cho các công dân của các quốc gia này, dù bằng con đường cho thuê hay
bằng giấy phép, hoặc bằng việc thành lập các xí nghiệp liên doanh hay bằng
bất cứ một thỏa thuận nào khác mà tác dụng là tạo ra một sự chuyển giao như
thế, trừ trường hợp các quốc gia hữu quan có thỏa thuận khác.
2. Điều quy định trên không ngăn cấm các quốc gia hữu quan nhận của quốc
gia thứ ba hay các tổ chức quốc tế sự trợ giúp về kỹ thuật hay tài chính nhằm
làm dễ dàng cho việc thực hiện các quyền của họ theo đúng Điều 69 và 70,
với điều kiện là việc này không dẫn đến một tác dụng nói ở khoản 1.
ĐIỀU 73. Thi hành các luật và quy định của quốc gia ven biển
1. Trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò, khai thác,
bảo tồn và quản lý các tài nguyên sinh vật của vùng đặc quyền về kinh tế,
quốc gia ven biển có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám
xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và
quy định mà mình đã ban hành theo đúng Công ước.
2. Khi có một sự bảo lãnh hay một bảo đảm đầy đủ khác thì cần thả ngay
chiếc tàu bị bắt và trả tự do ngay cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu này.
3. Các chế tài do quốc gia ven biển trù định đối với những vụ vi phạm các
luật và quy định về mặt đánh bắt trong vùng đặc quyền về kinh tế không
được bao gồm hình phạt tống giam, trừ khi các quốc gia hữu quan có thỏa
thuận khác, và không bao gồm một hình phạt thân thể nào khác.
4. Trong trường hợp bắt hay giữ một tàu thuyền nước ngoài, quốc gia ven
biển thông báo ngay cho quốc gia mà tàu mang cờ biết, bằng các con đường
thích hợp, các biện pháp được áp dụng cũng như các chế tài có thể sẽ được
tuyên bố sau đó.
ĐIỀU 74. Hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế giữa các quốc
gia có bờ biển tiếp liền hay đối diện nhau
1. Việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế giữa các quốc gia có
bờ biển tiếp liền hay đối diên nhau được thực hiện bằng con đường thỏa
thuận theo đúng với pháp luật quốc tế như đã nêu ở Điều 38 của Quy chế Tòa
án quốc tế để đi đến một giải pháp công bằng.
2. Nếu không đi tới được một thỏa thuận trong một thời gian hợp lý thì các
quốc gia hữu quan sử dụng các thủ tục nêu ở phần XV.
3. Trong khi chờ ký kết thỏa thuận ở khoản 1, các quốc gia hữu quan, trên
tinh thần hiểu biết và hợp tác, làm hết sức mình để đi đến các dàn xếp tạm
thời có tính chất thực tiễn và không phương hại hay cản trở việc ký kết các

thỏa thuận dứt khoát trong giai đoán quá độ này. Các dàn xếp tạm thời không
phương hại đến hoạch định cuối cùng.
4. Khi một điều ước đang có hiệu lực giữa các quốc gia hữu quan, các vấn đề
liên quan đến việc hoạch định ranh giới vùng đặc quyền về kinh tế được giải
quyết theo đúng điều ước đó.
ĐIỀU 75. Các hải đồ và các bản kê tọa độ địa lý
1. Với điều kiện tuân thủ phần này, các ranh giới phía ngoài của vùng đặc
quyền về kinh tế và các đường hoạch định ranh giới được vạch theo đúng
Điều 74 đều được ghi lên các hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định được vị trí
của nó; có trường hợp việc vẽ các ranh giới ngoài hay các đường hoạch định
ranh giới đó có thể thay thế bằng các bản kê các tọa độ địa lý các điểm, có
ghi rõ hệ thống trắc địa được sử dụng.
3. Quốc gia ven biển công bố theo đúng thủ tục các bản đồ hay bản kê các
tọa độ đại lý gửi đến Tổng thư ký Liên hợp quốc một bản để lưu chiểu.
PHẦN VI
THỀM LỤC ĐỊA
ĐIỀU 76. Định nghĩa thềm lục địa
1. Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần kéo
dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia đó cho đến bờ ngoài của rìa
lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải 200
hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia đó ờ khoảng cách gần
hơn.
2. Thềm lục địa không mở rộng ra ngoài các giới hạn nói ở các khoản từ 4
đến 6.
3. Rìa lục địa là phần kéo dài ngập dưới nước của lục địa của quốc gia ven
biển, cấu thành bởi đáy biển tương ứng với thềm, dốc và bờ, cũng như
lòng đất dưới đáy của chúng. Rìa lục địa không bao gồm các đáy của đại
dương ở độ sâu lớn, với các dải núi đại dương của chúng, cũng không bao
gồm lòng đất dưới đáy của chúng.
4. a) Theo công ước, quốc gia ven biển xác định bờ ngoài của rìa lục địa mở
rộng ra quá 200 hải lý các đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
bằng:

i. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố
định tận cùng nào mà bề dày lớp đá trầm tích ít nhất cũng bằng một phần
trăm khoảng cách từ điểm được xét cho tới chân dốc lục địa hay,
ii. Một đường vạch theo đúng khoản 7, bằng cách nối các điểm cố
định ở cách chân dốc lục địa nhiều nhất là 60 hải lý;
b) Nếu không có bằng chứng ngược lại, chân dốc lục địa trùng hợp với
điểm biến đồi độ dốc rõ nét nhất ở nền dốc
5. Các điểm cố định xác định trên đáy biển, đường ranh giới ngoài cùng
của thềm lục địa được vạch theo đúng khoản 4, điểm a), điểm nhỏ i) và
ii), nằm cách điểm cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải một khoảng cách
không vượt quá 350 hải lý hoặc nằm cách đường đẳng sâu 2500m là
đường nối liền các điểm có chiều sâu 2500m, một khoảng cách không quá
100 hải lý.
6. Mặc dù đã có khoản 5, một dải núi ngầm, ranh giới ngoài của thềm lục
địa không vượt quá một đường vạch ra ở cách đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải 350 hải lý. Khoản này không áp dụng cho các địa hình
nhô cao dưới mặt nước tạo thành các yếu tố tự nhiên của rìa lục địa, như
các thềm, ghềnh, sông núi, bãi hoặc mỏm.
7. Quốc gia ven biển ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa của mình, khi
thềm này mở rộng ra quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải, bằng cách nối liền các điểm cố định xác định bằng hệ tọa
độ kinh vĩ độ, thành các đoạn thẳng dài không quá 60 hải lý.
8. Quốc gia ven biển thông báo những thông tin về ranh giới các thềm lục
địa của mình, khi thềm này mở rộng quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở
dùng để tính chiều rộng lãnh hải, cho ủy ban ranh giới thềm lục địa được
thành lập theo Phụ lục II, trên cơ sở sự đại diện công bằng về địa lý. Ủy
ban gửi cho các quốc gia ven biển những kiến nghị về các vấn đề liên
quan đến việc ấn định ranh giới ngoài thềm lục địa của họ. Các ranh giới
do một quốc gia ven biển ấn định trên cơ sở các kiến nghị đó là dứt khoát
và có tính chất bắt buộc.
9. Quốc gia ven biển gửi cho Tổng thư ký Liên hợp quốc các bản đồ và
các điều chỉ dẫn thích đáng, kể cả các dữ kiện trắc địa, chỉ rõ một cách
thường xuyên ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình. Tổng thư ký
công bố các tài liệu này theo đúng thủ tục.
10. Điều này không xét đoán trước vấn đề hoạch định ranh giới thềm lục
địa giữa các quốc gia có bờ biển tiếp liền hoặc đối diện nhau.
Về Đầu Trang Go down
 
CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN - Phân 2
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN - Phân 6
» CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN - Phân 7
» CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN - Phân 8
» CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN - Phân 9
» CÔNG ƯỚC CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT BIỂN - Phân 10

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Ngưng tất cả các hoạt động trên Forum :: ..::..Ban Quản Trị Diễn Đàn..::.. :: Tin tức-
Chuyển đến